Những điều cần biết về cá ngựa
Cá ngựa có tên khoa học là Hippocampus xuất phát từ tiếng Hy
Lạp cổ đại, “Hippo” có nghĩa là ngựa, còn “kampos” có nghĩa là quái vật biển.
Phân bố:
Cá ngựa được tìm thấy chủ yếu ở các vùn biển nhiệt đới và ôn
đới nông. Chúng thích sống ở những nơi có độ che phủ như cửa sông, rạn san hô
hay rừng ngập mặn. Ở vùng biển Thái Bình Dương, từ Bắc Mỹ đến Nam Mỹ, tồn tại 4
loài cá ngựa, còn ở Đại Tây Dương có hai loài, trong đó có một loài mà người ta
thường gọi là cá ngựa lùn. Ở Địa Trung Hải thì chỉ có ba loài sinh sống. Bên cạnh
đó, chúng còn hiện diện ở vùng cửa sông Thames ,
cũng giống như động vật có vú, cá ngựa đực cũng có tập tính bảo vệ lãnh thổ (phạm
vi bán kính khoảng 1m).
Đặc điểm hình thái:
Chúng có kích thước khoảng từ 1,5 – 35,5 cm tuỳ theo từng loài
chuyên biệt. Chúng có một lớp da khá mỏng, một vài loài có da mỏng và trong suốt
nên có thể nhìn thấy nội tạng bên trong. Khác với những loài cá khác, chúng có
dáng bơi “độc nhất vô nhị”, chúng bơi thẳng đứng. Cá ngựa lùn đang nắm giữ kỉ lục
là loài cá bơi chậm nhất, chỉ 1,5 m/ giờ. Chúng có một cái mõm dài chủ yếu dùng
để hút thức ăn và cũng giống như loài tắc kè hoa độc đáo, mắt của chúng hoạt động
độc lập với nhau.
Sinh sản:
Một điều rất độc đáo ở loài này là cá ngựa đực phải ấp trứng
bằng một cái túi to trước bụng. Vũ điệu tán tỉnh của chúng có thể kéo dài đến hàng
giờ liền, một số ghi nhận tối đa là 8 giờ. Và cũng trong thời gian tiến hành
giao phối, chúng có thể thay đổi màu sắc. Khi giao phối, con cái sẽ chuyển một
số lượng lớn trứng vào túi trứng của con đực (có thể lên đến 1500 trứng). Thông
thường thì con đực sẽ “mang thai” từ 9-45 ngày, sau đó cá con sẽ được con bố đẩy
ra khỏi túi. Một khi đã “lâm bồn” xong, con bố cảm thấy đã hoàn thành nhiệm vụ
và uỷ thác hết trách nhiệm còn lại cho con mẹ. Một số loài, sau khi “sinh” con
bố thường sẽ đi tìm một con cái khác để tiếp tục gây giống, tuy nhiên, cũng có
một số lại chung sống với nhau đến trọn đời. Như hầu hết các loài cá khác, chúng
không nuôi dưỡng cá ngựa con sau khi sinh và chỉ ít hơn 0,5% số con con sóng sót
đến trưởng thành với các lý do bị ăn thịt, nhiệt độ môi trường…..
Dinh dưỡng:
![]() |
Cá ngựa lùn |
Chúng ăn các loài động vật giáp xác và phiêu sinh vật trôi nổi
trên mặt nước. Với khả năng nguỵ trang tài tình và tính kiên nhẫn cao, chúng sẽ
phục kích và xơi tái con mồi một cách ngoạn mục. Tôm Mysid và những động vật giáp
xác nhỏ là món khoái khẩu của chúng. Theo một số quan sát, một vài loại cá ngựa
lớn còn ăn cả động vật không xương sống và cả ấu trùng, trứng cá hoặc thậm chí
còn ăn cả xác chết. Trong môi trường nuôi nhốt, chúng thường được cho ăn các loại
thực phẩm đông lạnh. Thông thường thì các loại thức ăn của chúng đều có nguồn gốc
từ biển bởi vì có chứa nhiều axit béo, ngược lại thì không.
Mối đe doạ tuyệt chủng:
Theo các nhà nghiên cứu cũng như các nhà môi trường, loài cá
ngựa đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng bởi sự phá huỷ của con người đến các rạn
san hô, rạn đá ngầm. Bên cạnh đó, các tình trạng ô nhiễm, tràn dầu cũng tác động
mạnh mẽ tới sự tồn tại của loài thuỷ sinh này. Thậm chí, chúng còn bị tận diệt
quá mức để làm các loại dượt liệu chữa bệnh, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ
cá ngựa khô mạnh nhất. Cũng vì mức lợi nhuận quá cao (khoảng từ 600-3000
USD/kg) mà loài này đem lại đã đẩy chúng vào bờ vực diệt vong.
Không có nhận xét nào